Chỗ nói Nạp thủy nghĩa là, Nạp là quy nạp hoặc là nạp vào. Chính là nắm tất cả chỗ bên trong Minh Đường có thủy triều Đường, đều nạp vào Long khí. Cũng chính là lấy Long làm chủ, Long thuộc dương, là thể hiện âm tòng dương, dương không tòng âm, cho nên cùng với Long đều là thuận tuần 12 cung Trường sinh, Mộ khố tức là Thủy khẩu Long khí ở đất hưu tù, tất cả thủy triều Đường cũng đi theo cùng quy về Mộ khố, tức là miệng nước chảy. Cho nên, thẩm sát cung vị triều Đường của thủy triều Đường, là bắt đầu từ Thủy khẩu.
Cụ thể phép làm là, người tiến hành quan sát lập Huyệt tràng và quan sát Thủy khẩu như nhau, từ trái đến phải hoặc là từ phải đến trái, quan sát từng nhánh vào Thủy khẩu đem tất cả thủy triều Đường ở bên trong Minh Đường, chỗ chiếm ở cung vị của 12 cung Trường sinh. Nếu như thủy đến chiếm là cung Trường sinh, thì xưng là Thủy Trường sinh. Chiếm là cung Đế vượng, thì xưng là Thủy Đế vượng. Chiếm là cung Bệnh, thì xưng là Thủy Bệnh…
Cần chú ý là, sử dụng La bàn quan sát nhắm trúng điểm vào Thủy khẩu, tất cần phải ở đường mức cùng điểm giao nhau giữa dòng chảy nước chảy đến vào Thủy khẩu chỗ đất đang làm móng nhà hoặc là đáy quan tài của mộ phần. Chỗ thủy đến chiếm cung vị là phải đấu nối với kim cung vị song sơn. Không có cái gì là phân biệt thiên can địa chi cả, chỗ này ở trên đã nói rõ ràng rồi. Đấu nối với kim song sơn là đồng cung cùng với chính kim của 12 chi, thiên can địa chi đều là như nhau, ví dụ như Thủy cục Trường sinh ở cung Khôn Thân, nếu như triều đường đấu kim ở Thân cung, tất nhiên xưng là Thủy Trường sinh, nếu triều đường ở cung Khôn, đồng dạng cũng xưng là Thủy Trường sinh.
Chỗ nói Thuyết pháp Song sơn Tam hợp ngũ hành Trường sinh của Vương Triệt Oánh thời nhà Minh, Triệu Cửu Phong thời nhà Thanh là: “Khứ thủy nghi xuất thiên can, bất nghi lưu địa chi.” Lý do chủ yếu của họ là, thủy đến từ trên trời, cũng ứng với chảy từ trên trời. Chỗ này là không có căn cứ. Đấu nối kim song sơn, thiên can và địa chi là đồng cung với chính kim 12 chi, không có cái gì là phân biệt. Nếu nói có sự khác biệt, chỉ có thể cho là song sơn thiên can địa chi ranh giới đấu nối với chính kim chính là điểm vượng khí của khí 12 chi, thiên can ở trước, là sơ khí và vượng khí của 12 chi. Địa chi ở sau, là khí hưu tù của 12 chi. Nếu theo đạo lý của 《 Táng Thư 》”Chu Tước chảy vào tù tạ”, ứng với nước chảy đi ra phải từ phương địa chi hưu tù đi ra, lý do nước chảy từ thiên can là không có chân đứng được. Đồng thời, nước chảy từ thiên can, cũng không thể thuyết minh là nước đi từ trên trời.
Giám định Nạp thủy cát hung (phán đoán)
Thuật địa lý cổ pháp của 3 họ Quách, Dương, Tăng là khoa học cổ đại, tồn tại lý luận là phù hợp với tự nhiên khách quan. Theo quan điểm khoa học hiện đại để đánh giá, ngoại trừ bộ phận huyền học Nhật gia ra, còn lại đại bộ phận là phù hợp với khoa học hiện đại. Theo cách Long đón khí mà nói, chỉ cần là cách Long chuẩn xác, bất luận là ở bình nguyên hay là sơn địa, chỗ lập hướng là đồng hành ăn khớp cùng với lớp nhăn của vỏ trái đất. Đây là có liên quan cùng với nguồn gốc của lớp vỏ trái đất, ảnh hưởng cùng với các loại như lực vạn vật hấp dẫn, lực hút quả đất, từ trường địa cầu, tầng khí quyển là có đủ tính liên quan mật thiết. Đây là chỗ lĩnh hội của tôi đã hơn 10 năm thực tiễn về thuật địa lý. thuật nạp thủy địa lý cổ pháp của Quách Dương Tăng, hoàn toàn lấy hoàn cảnh khách quan tự nhiên làm điều kiện tiên quyết, tồn tại khách quan của vấn đề nạp thủy là lấy tất cả chỗ nước chảy ở bên trong Minh Đường làm căn cứ, ví dụ như triều Đường Thủy sinh, ở Thủy Long tất là phải có đủ nước chảy triều vào từ chỗ nối kim song sơn ở cung Khôn Thân, tức phương vị triều Đường có vĩ độ La bàn là từ 105 độ đến 135 độ. Ở Hỏa Long tất phải có đủ nước chảy triều Đường nối kim song sơn từ cung Cấn Dần, tức trong phạm vi triều đường ở vĩ độ La bàn là từ 280 độ đến 315 độ, mới có thể xưng là triều đường thủy sinh. Pháp tắc của họ Vương Triệu nói song sơn tam hợp ngũ hành Trường sinh là không phải, chỗ nói “Sinh lai hội Vượng”, chỉ cần có thủy đảo sang trái, lập hướng sinh, thì gọi là Sinh lai hội Vượng, lý do là lập hướng sinh không có khách quan sinh thủy thì gọi là sinh thủy, mà trên lý luận khí thủy là xoay bên phải, Long trường sinh thì thủy đế vượng, cho nên gọi là Sinh lai hội Vượng. Đương nhiên, ở đây là giới thiệu ở phương diện lý khí nạp thủy, về phần phương diện hình pháp, quý ở du dương thanh triệt, kỵ ở hỗn trọc. Quý ở uốn khúc có tình, khinh ở trực lưu mà kỵ ở xung huyệt. Quý ở nguồn xa chảy dài mà khinh ở lưu lượng là nhỏ.